The Lord Lloyd-Webber | |
---|---|
Lloyd Webber vào năm 2007 | |
Sinh | Andrew Lloyd Webber 22 tháng 3, 1948 Kensington, Luân Đôn, Anh |
Quốc tịch | Anh |
Trường lớp | Westminster School Royal College of Music |
Nghề nghiệp | Nhà soạn nhạc, panellist, nhân vật truyền hình, doanh nhân, người sáng tác bài hát, giám đốc nhà hát |
Năm hoạt động | 1965–nay |
Phối ngẫu | Sarah Hugill (cưới 1971–1983) (li dị) (li dị) Madeleine Gurdon (cưới 1991) |
Con cái | The Hon. Imogen (sinh 1977) The Hon. Nicholas (sinh 1979) The Hon. Alastair Adam (sinh 1992) The Hon. William Richard (sinh 1993) The Hon. Isabella Aurora (sinh 1996) |
Cha mẹ | William Lloyd Webber (1914–1982) Jean Hermione Lloyd Webber (tên thời con gái Johnstone; 1921–1993) |
Người thân | Julian Lloyd Webber (anh em trai) |
Giải thưởng |
Best Original Song 1996: Evita Best Original Score 1980: Evita Best Original Song 1996: Evita Performing Arts 2001: Jesus Christ Superstar Best Cast Show Album 1980: Evita 1983 Cats Best Contemporary Composition 1985: Lloyd Webber: Requiem 2008: Society of London Theatre Special Award |
Website | AndrewLloydWebber.com |
Andrew Lloyd Webber, Baron Lloyd-Webber[1][2] (sinh ngày 22 tháng 3 năm 1948) là một nhà soạn nhạc và bầu sô nhạc kịch người Anh.[3]
Một số vở nhạc kịch của ông đã được diễn trong quãng thời gian hơn một thập kỷ ở cả West End và Broadway. Ông đã sáng tác 13 vở nhạc kịch, một chu kỳ bài hát, một tập hợp các biến thể âm nhạc, hai nhạc nền phim, và một Requiem Mass bằng tiếng Latin. Một số bài hát của ông đã được ghi nhận rộng rãi và là những hit vượt qua quy mô của những vở nhạc kịch đầu tiên mà nó xuất hiện, đặc biệt là "The Music of the Night" từ The Phantom of the Opera, "I Don't Know How To Love Him" từ Jesus Christ Superstar, "Don't Cry for Me, Argentina" và "You Must Love Me" từ Evita, "Any Dream Will Do" từ Joseph and the Amazing Technicolor Dreamcoat và "Memory" từ Cats.