Augustus

Augustus
Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc La Mã
Tượng của Caesar Augustus.
Nguyên thủ La Mã đầu tiên
Cai trị16 tháng 1 năm 27 TCN19 tháng 8 năm 14
(41 năm, 215 ngày)
Tiền nhiệmkhông (Đế quốc được thành lập)
Kế nhiệmTiberius Vua hoặc hoàng đế
Thông tin chung
SinhGaius Octavius
23 tháng 9, 63 TCN
Roma, Cộng hòa La Mã
Mất19 tháng 8, 14 (75 tuổi)
Roma, Đế quốc La Mã
An tángLăng Augustus
Phối ngẫu
Hậu duệ
Tên đầy đủ
Gaius Julius Caesar Octavianus
Hoàng tộcJulia-Claudia
Thân phụGaius Octavius;
được Julius Caesar nhận làm con nuôi
Thân mẫuAtia Balba Caesonia
Các Triều đại Đế quốc La Mã
Triều đại Julia-Claudia
Augustus
(27 TCN - 14 CN)
Con cái
   Con ruột - Julia lớn
   Con nuôi - Gaius Caesar, Lucius Caesar, Agrippa Postumus, Tiberius
Tiberius
(14 CN - 37 CN)
Con cái
   Con ruột - Julius Caesar Drusus
   Con nuôi - Germanicus
Caligula
(37 CN - 41 CN)
Con cái
   Con ruột - Julia Drusilla
   Con nuôi - Tiberius Gemellus
Claudius
(41 CN - 55 CN)
Con cái
   Con ruột - Claudia Antonia, Claudia Octavia, Britannicus
   Con nuôi - Nero
Nero
(55 CN - 68 CN)
Con cái
   Con ruột - Claudia Augusta

Augustus (/ɔːˈɡʌstəs/;[1] tiếng Latinh: Imperator Caesar Divi Filius Augustus;[2] sinh 23 tháng 9 năm 63 TCN19 tháng 8 năm 14, tên khai sinh là Gaius Octavius và được biết đến với cái tên Gaius Julius Caesar Octavianus giai đoạn sau năm 27 (tiếng Latinh cổ: GAIVS•IVLIVS•CAESAR•OCTAVIANVS, phát âm tiếng Latin cổ: [au̯ˈɡʊstʊs]), là Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc La Mã, trị vì từ năm 27 trước Công nguyên đến khi qua đời năm 14 Công nguyên.

Octavian được người ông cậu của mình, Julius Caesar nhận làm con nuôi và thừa hưởng mọi di sản của Caesar sau khi ông bị ám sát năm 44 TCN. Những năm tiếp theo, Octavian tham gia Liên minh tam hùng lần thứ 2 cùng với Marcus AntoniusMarcus Aemilius Lepidus. Với tư cách là thành viên của Tam đầu chế, Octavius cai trị La Mã và lãnh thổ ở Châu Âu của nó một cách chuyên quyền, chiếm giữ quyền chấp chính tối cao sau khi hai chấp chính Aulus HirtiusGaius Vibius Pansa Caetronianus qua đời và đảm bảo khả năng tái cử bất biến của mình. Tam đầu chế tan rã sau khi hoàn thành mục đích của những kẻ lập ra nó: Lepidus bị đày ải và Antonius tự sát sau khi bại trận tại Actium năm 31 TCN.

Sau khi Tam đầu chế thứ Hai tan rã, Octavius vẻ ngoài khôi phục lại Cộng hoà La Mã với quyền lực tối cao thuộc về Viện nguyên lão nhưng thực chất vẫn nằm trong tay ông. Phải mất sáu hay bảy năm để tìm ra được một khuôn mẫu chính xác để một nước chính thức vẫn theo thể chế Cộng hòa nhưng bây giờ được lãnh đạo bởi một lãnh tụ duy nhất; kết quả là thể chế được biết đến như là Đế quốc La Mã. Tước vị hoàng đế không giống như độc tài La Mã mà Caesar và Sulla đã từng nắm giữ trước đó; thật vậy, ông đã khước từ khi đại đa số dân La Mã muốn "đưa ông lên chức vụ độc tài" [3]. Theo pháp luật, Augustus có một tập hợp các quyền lực ông có suốt đời do Viện nguyên lão giao cho ông, bao gồm cả quyền lên diễn đàn để diễn thuyết, quyền kiểm duyệt, và quyền lãnh đạo, mà không cần phải được bầu vào những cơ quan tương ứng với các chức vụ đó, gồm quan bảo dân, quan giám sát, và chấp chính tối cao. Quyền lực áp đảo của ông có được từ những thành công về tài chính và những nguồn lợi thu được từ các cuộc chinh phạt, sự xây dựng các mối quan hệ bảo trợ trong suốt toàn lãnh thổ Đế quốc, sự trung thành của binh sĩ và những cựu chiến binh, quyền lực từ những vinh dự được ban cho bởi Viện Nguyên lão[4], và sự kính trọng, yêu mến của dân chúng. Sự nắm giữ đa số các sư đoàn lê dương của ông gây áp lực lên Viện Nguyên lão, cho phép ông đưa ra các quyết định mà không cần thông qua ý kiến của họ. Với khả năng loại bỏ những Nguyên lão đối lập với biện pháp quân sự, Viện Nguyên lão trở nên ngoan ngoãn dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của ông.

Triều đại của Augustus đã mở ra một thời đại tương đối hòa bình, gọi là Pax Augusta hay hòa bình của Augustus. Mặc dù các cuộc chiến tranh vẫn tiếp diễn ở biên giới và một năm nội chiến tranh giành quyền kế vị, vùng Địa Trung Hải hòa bình trong hơn hai thế kỉ. Augustus mở rộng lãnh thổ của Đế quốc La Mã, quy phục nhiều nước chư hầu để giữ biên cương, và thiết lập hòa bình với Parthia thông qua các biện pháp ngoại giao. Ông cho cải cách lại hệ thống thuế của La Mã, phát triển mạng lưới đường sá với hệ thống liên lạc chính thức, thiết lập quân đội thường trực (và một lực lượng hải quân nhỏ) và Cận vệ Praetorian, tạo ra hệ thống bảo an và lính cứu hỏa cho thành Roma. Nhiều thành phố được xây dựng lại dưới thời của Augustus; và ông chép lại những thành tựu của mình trong cuốn Res Gestae Divi Augusti, tồn tại tới nay. Khi ông băng hà vào năm 14, Augustus được tôn làm thần bởi Viện Nguyên lão, được thờ phụng bởi dân La Mã. Cái tên Augustus và Caesar được lấy làm đế hiệu của các hoàng đế sau này, và tháng Tám (August) trong lịch Rôma được đặt theo tên ông.

  1. ^ Wells, John C. (1990). Longman pronunciation dictionary. Harlow, England: Longman. ISBN 0582053838. entry "Augustus"
  2. ^ Trong tiếng Latinh cổ điển, từ DIVI FILIVS trong đế hiệu có nghĩa là con của thần thánh, tức Augustus vốn là con nuôi của Julius Caesar người được tôn vinh là DIVS IVLIVS có nghĩa là Julius thần thánh.
  3. ^ CCAA, Erich S. Gruen, Augustus and the Making of the Principate, 35.
  4. ^ Eck, 3.

From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by razib.in