Cộng hòa Azerbaijan
|
|
---|---|
Tên bản ngữ
| |
Vị trí Azerbaijan (xanh) trên thế giới | |
Vị trí Azerbaijan (đỏ) trong khu vực | |
Tổng quan | |
Thủ đô và thành phố lớn nhất | Baku 40°23′43″B 49°52′56″Đ / 40,39528°B 49,88222°Đ |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Azerbaijan[1] |
Ngôn ngữ thiểu số | Xem danh sách đầy đủ |
Sắc tộc (2009[3]) |
|
Tôn giáo chính |
|
Tên dân cư | Người Azerbaijan |
Chính trị | |
Chính phủ | Nhà nước đơn nhất Cộng hòa bán tổng thống chế[4] |
Ilham Aliyev | |
Mehriban Aliyeva | |
Ali Asadov | |
Sahiba Gafarova | |
Lập pháp | Quốc hội |
Lịch sử | |
Thành lập | |
28 tháng 5 năm 1918 | |
28 tháng 4 năm 1920 | |
• Độc lập từ Liên Xô |
|
21 tháng 12 năm 1991 | |
2 tháng 3 năm 1992 | |
• Phê chuẩn hiến pháp | 12 tháng 11 năm 1995 |
Địa lý | |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 86.600 km2 (hạng 112) 33.436 mi2 |
• Mặt nước (%) | 1,6 |
Dân số | |
• Ước lượng tháng 4 năm 2021 | 10.130.100[5] (hạng 90) |
• Mật độ | 115/km2 (hạng 99) 293/mi2 |
Kinh tế | |
GDP (PPP) | Ước lượng 2019 |
• Tổng số | $189,050 tỉ[6] |
$18.793[6] | |
GDP (danh nghĩa) | Ước lượng 2019 |
• Tổng số | $45,284 tỉ[6] |
• Bình quân đầu người | $4.498[6] |
Đơn vị tiền tệ | Manat (₼) (AZN) |
Thông tin khác | |
Gini? (2008) | 33,7[7] trung bình |
HDI? (2019) | 0,756[8] cao · hạng 88 |
Múi giờ | UTC+4 (AZT) |
Giao thông bên | phải |
Mã điện thoại | +994 |
Mã ISO 3166 | AZ |
Tên miền Internet | .az |
Azerbaijan (phiên âm tiếng Việt: A-déc-bai-gian hoặc A-déc-bai-dan[9], tiếng Azerbaijan: Azərbaycan), tên gọi chính thức là Cộng hòa Azerbaijan, là một quốc gia nằm tại khu vực Tây Á và thuộc vùng Kavkaz của lục địa Á-Âu, Azerbaijan giáp với biển Caspi ở phía đông, Nga ở phía bắc, Gruzia ở phía tây bắc, Armenia ở phía tây và Iran ở phía Nam. Ngoài ra, trong cơ cấu lãnh thổ của Azerbaijan có Cộng hoà Tự trị Nakhchivan. Nakhchivan giáp biên giới với Armenia ở phía bắc và phía đông, Iran ở phía nam và phía tây cùng Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây bắc, đây là một vùng lãnh thổ bị tách rời khỏi nước này còn vùng đất Nagorno-Karabakh ở phía tây nam thì bị Armenia chiếm đóng vào năm 1991 nhưng giành lại quyền kiểm soát vào năm 2023.
Người Azerbaijan (hay còn gọi đơn giản là Azeris) là nhóm sắc tộc chiếm đại đa số, khoảng 85% theo truyền thống trung thành với dòng Hồi giáo Shi'a, số còn lại là tín đồ dòng Hồi giáo Sunni, các nhóm tôn giáo còn lại bao gồm Giáo hội Chính thống giáo Nga (1.3%), Tông đồ Armenia (1.3%) và những tôn giáo thiểu số khác (5%).
Azerbaijan là một nền dân chủ hoàn chỉnh với các quyền tự do đầy đủ. Azerbaijan là một quốc gia thế tục, thành viên của Hội đồng châu Âu, Ngân hàng Phát triển châu Á, Khối thịnh vượng chung các Quốc gia Độc lập từ năm 1991, đối tác trong Chính sách Láng giềng châu Âu của Liên minh châu Âu (EU) từ năm 2006, Đối tác vì Hoà bình và Đối tác Cá nhân Kế hoạch Hành động của NATO.[10]
LaPorte examines the dynamics of semi-presidentialism in Azerbaijan. Azerbaijan's regime is a curious hybrid, in which semi-presidential institutions operate in the larger context of authoritarianism. The author compares formal Constitutional provisions with the practice of politics in the country, suggesting that formal and informal sources of authority come together to enhance the effective powers of the presidency. In addition to the considerable formal powers laid out in the Constitution, Azerbaijan's president also benefits from the support of the ruling party and informal family and patronage networks. LaPorte concludes by discussing the theoretical implications of this symbiosis between formal and informal institutions in Azerbaijan's semi-presidential regime.