Gorillaz

Gorillaz
Thông tin nghệ sĩ
Nguyên quánEssex, Anh, Vương quốc Anh
Thể loạiAlternative rock, trip hop, alternative hip hop, electronica, indie rock,[1] britpop
Năm hoạt động1998–nay
Hãng đĩaParlophone/EMI, Virgin/EMI, Warner Music Group[2]
Thành viênDamon Albarn
Jamie Hewlett
Thành viên hư cấu2D
Murdoc
Russel
Noodle
Thành viên ảo trong quá khứCyborg Noodle
Websitegorillaz.com

Gorillaz là một dự án về âm nhạc và hình ảnh được thành lập năm 1998 tại Anh bởi Damon AlbarnJamie Hewlett. Dự án bao gồm âm nhạc của chính Gorillaz và một vũ trụ hư cấu bao quát miêu tả một "ban nhạc ảo" của các nhân vật hoạt hình. Ban nhạc này có bốn thành viên hoạt hình: 2D (giọng ca chính, keyboard và đàn melodica), Murdoc Niccals (guitar bass và trống máy), Noodle (guitar, keyboard và hát đệm) và Russel Hobbs (trống và bộ gõ). Vũ trụ hư cấu của họ được khám phá thông qua trang web và những video âm nhạc của ban nhạc, cũng như một số phương tiện truyền thông khác, chẳng hạn như các phim hoạt hình ngắn. Phần âm nhạc là một sự hợp tác giữa các nghệ sĩ khác nhau, với chỉ Albarn đóng vai trò nhạc sĩ cố định.

Album đầu tay năm 2001 của ban nhạc, Gorillaz, bán được hơn bảy triệu bản và điền tên họ vào Sách Kỷ lục Guinness như "Ban nhạc ảo thành công nhất".[3] Họ được một đề cử cho Giải thưởng Mercury vào năm 2001, nhưng đề cử này sau đó được thu hồi theo yêu cầu của ban nhạc.[4] Album phòng thu thứ hai của họ, Demon Days, phát hành năm 2005, năm lần đạt đĩa bạch kim tại Vương quốc Anh,[5] đạt cú đúp đĩa bạch kim ở Hoa Kỳ,[6] giành được năm đề cử Giải Grammy năm 2006[7] và thắng được một giải trong số đó cho hạng mục Phần hợp tác Pop tốt nhất với giọng hát.[8] Ban nhạc đã giành được nhiều giải thưởng khác, trong đó có hai giải MTV Video Music Awards, nột Giải thưởng NME, ba giải MTV Europe Music Awards, và đã được đề cử cho chín giải Brit Award.[9][10] Doanh số bán hàng kết hợp của các album GorillazDemon Days đã vượt mốc 15 triệu bản vào năm 2007.[11] Album phòng thu thứ ba của ban nhạc, Plastic Beach, được phát hành tháng 3 năm 2010. Album mới nhất của họ, The Fall, được phát hành vào tháng 12 năm 2010 dưới dạng tải miễn phí cho các thành viên câu lạc bộ những người hâm mộ, và vào tháng 4 năm 2011 dưới dạng vật lý. Phong cách của họ là thể nghiệm và là một sự hợp thành của nhiều thể loại âm nhạc, với một số lượng lớn ảnh hưởng bao gồm alternative, rock, hip hop, electronica, dub, reggaepop.[12][13]

Tương lai của dự án đã một lần phải suy xét do tình trạng mối quan hệ bạn bè của Albarn và Hewlett;[14] tuy nhiên, cả hai đã tỏ ra tôn trọng những khác biệt của người còn lại và tuyên bố rằng dự án sẽ tiếp tục tại một số thời điểm trong tương lai.[15][16]

  1. ^ Gallucci, Michael. “10 Best Gorillaz Songs”. DIFFUSER.FM. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2013.
  2. ^ “GORILLAZ”. WARNER MUSIC. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2013.
  3. ^ Cooper, James (ngày 19 tháng 11 năm 2007). “Gorillaz: D-Sides”. inthenews.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  4. ^ “Mercury Music Prize: The nominees”. BBC News Online. ngày 25 tháng 7 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2007.
  5. ^ “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. ngày 24 tháng 2 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2010.
  6. ^ “Gorillaz RIAA certifications”. Recording Industry Association of America. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2008.
  7. ^ “EMI Music earns 54 Grammy nominations”. EMI. ngày 8 tháng 12 năm 2005. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2007.
  8. ^ “EMI Music Publishing Wins Big At The Grammys!”. EMI. ngày 14 tháng 2 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  9. ^ Gorillaz BRITS Profile Lưu trữ 2012-02-02 tại Wayback Machine BRIT Awards Ltd
  10. ^ Rock On The Net: Gorillaz Rock On The Net
  11. ^ Marchetto, Sean (ngày 25 tháng 1 năm 2007). “Living In A Virtual World”. Fast Forward Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |accessdate=|access-date= (trợ giúp)
  12. ^ Brown, Cass; Gorillaz (ngày 2 tháng 11 năm 2006). Rise of the Ogre. United States: Penguin. tr. 43. ISBN 1-59448-931-9.
  13. ^ Brown, Cass; Gorillaz (ngày 2 tháng 11 năm 2006). Rise of the Ogre. United States: Penguin. tr. 47. ISBN 1-59448-931-9.
  14. ^ Harris, John (ngày 7 tháng 4 năm 2012). “Damon Albarn: Gorillaz, heroin and the last days of Blur”. The Guardian. London/Manchester: Guardian News and Media. tr. 1. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2012.
  15. ^ “Jamie comments on future of Gorillaz at Monkey NYC event”. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2013.
  16. ^ “Blur and Gorillaz Will Release New Albums, Gorillaz' Jamie Hewlett Says”. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2013.

From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by razib.in