Kerala കേരളം (tiếng Malayalam) | |
---|---|
— Bang — | |
Nhà nổi tại Kerala | |
Từ nguyên: Vùng đất của người Chera hay Vùng đất của những cây dừa | |
Tên hiệu: "Vùng đất riêng của Thượng Đế" | |
Khẩu hiệu: Satyameva Jayate (Chỉ có chân lí đắc thắng) | |
Vị trí của Kerala | |
Tọa độ (Thiruvananthapuram): 8°30′B 77°00′Đ / 8,5°B 77°Đ | |
Quốc gia | Ấn Độ |
Thành lập | 1 tháng 11 năm 1956 |
Thủ phủ | Thiruvananthapuram |
Huyện | 14 |
Chính quyền | |
• Kiểu | Chế độ nhất viện |
• Thành phần | Chính phủ Kerala |
• Thống đốc | P. Sathasivam[2] |
• Thủ hiến | Pinarayi Vijayan (CPI(M)) |
Diện tích | |
• Tổng cộng | 38.863 km2 (15,005 mi2) |
Thứ hạng diện tích | 22nd |
Độ cao cực đại | 2.695 m (8,842 ft) |
Độ cao cực tiểu | −2,2 m (−72 ft) |
Dân số (2011) | |
• Tổng cộng | 33.387.677[1] |
• Thứ hạng | thứ 13 |
Tên cư dân | Người Kerala, người Malayali |
Múi giờ | IST (UTC+05:30) |
Mã ISO 3166 | IN-KL |
HDI | 0.790 (cao) |
xếp hạng HDI | thứ 1 (2011) |
Tỉ lệ biết chữ | 93.9% (hạng 1) (2011) |
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Malayalam |
Ngôn ngữ nói | Tiếng Malayalam, tiếng Tamil, tiếng Kannada và tiếng Konkan |
Trang web | kerala |
Kerala, tên trong tiếng Malayalam là Keralam (tiếng Malayalam: കേരളം, phát âm tiếng Malayalam: [keːɾɐɭɐm]) là một bang thuộc miền Nam Ấn Độ. Bang được thành lập ngày 1 tháng 11 năm 1956 theo Đạo luật Tái tổ chức Bang, theo đó những vùng nói tiếng Malayalam tập hợp thành bang Kerala. Kerala rộng hơn 38.863 km², tiếp giáp bang Karnataka về phía bắc và đông bắc, bang Tamil Nadu về phía đông và nam, và biển Laccadive về phía tây. Theo thống kê năm 2011, Kerala có 33.387.677 dân, là bang đông dân thứ mười ba tại nước này. Bang được chia làm 14 huyện, trong đó có thủ phủ Thiruvananthapuram. Tiếng Malayalam là ngôn ngữ phổ biến nhất và cũng là ngôn ngữ chính thức của bang.
Từ khoảng năm 3000 trước Công nguyên, vùng đất Kerala đã nổi tiếng là nơi buôn bán gia vị sầm uất. Trong giai đoạn từ thế kỉ 3 trước Công nguyên cho đến thế kỉ 12 sau Công nguyên, Kerala thuộc Chera, một vương quốc quan trọng ở miền Nam Ấn Độ và thường có xung đột với các nước láng giềng Chola và Pandya. Đến thế kỉ 15, người Bồ Đào Nha đã đặt chân đến Kerala với mục đích tìm kiếm các loại gia vị được người châu Âu ưa chuộng, từ đó dẫn đến việc vùng đất Kerala và sau này là cả Ấn Độ trở thành thuộc địa của thực dân châu Âu. Đến khi Ấn Độ giành được độc lập năm 1949, vương quốc Travancore và thành phố Cochin gia nhập Cộng hòa Ấn Độ, Travancore-Cochin trở thành một bang năm 1949. Năm 1956, bang Kerala chính thức được thành lập bằng cách kết hợp phần lớn bang Travancore-Cochin cũ với huyện Malabar và huyện Kasaragod.
Trong các bang của Ấn Độ, Kerala nổi bật về mặt nhân khẩu với một số đặc điểm sau: chỉ số phát triển con người (HDI) cao nhất, đạt 0,790 năm 2011 (so với mức trung bình cả nước 0,513); tỷ lệ biết chữ cao nhất, 93,91% năm 2011 (trung bình cả nước là 74,04%); tuổi thọ trung bình cao nhất, 77 tuổi năm 2004 (trung bình cả nước là 63,5 tuổi); và tỷ lệ giới tính nữ trên nam cao nhất, 1084 nữ trên 1000 nam năm 2011 (trung bình cả nước là 940 nữ trên 1000 nam). Trong thập niên 1970 và 1980, kinh tế các nước Ả Rập vùng Vịnh phát triển mạnh đã thu hút một số lượng lớn người lao động Kerala di cư sang các nước này, dẫn đến hệ quả ngày nay kinh tế bang Kerala phụ thuộc vào nguồn kiều hối từ cộng đồng Kerala ở nước ngoài. Ấn Độ giáo là tôn giáo phổ biến nhất tại Kerala, bên cạnh Hồi giáo và Kitô Giáo.
Kerala là bang sản xuất hồ tiêu và cao su quan trọng của Ấn Độ. Dừa, chè, cà phê, hạt điều và các loại gia vị chiếm vai trò lớn trong nền nông nghiệp của bang cùng với hoạt động khai thác thủy sản nhờ đường bờ biển dài gần 600 km. Kerala có ngành truyền thông phát triển với các đầu báo phát hành bằng 9 thứ tiếng, chủ yếu là tiếng Anh và tiếng Malayalam. Kerala cùng là địa điểm du lịch nổi tiếng của Ấn Độ với những hồ nước, đầm phá, bãi biển đẹp, cảnh quan nhiệt đới xanh tươi và hình thức du lịch chữa bệnh Ayurveda.