Cộng hoà Mali
|
|||||
---|---|---|---|---|---|
Tên bằng ngôn ngữ chính thức
| |||||
| |||||
Bản đồ | |||||
Tiêu ngữ | |||||
Un peuple, un but, une foi (Tiếng Pháp: "Một dân tộc, một mục đích, một niềm tin") | |||||
Quốc ca | |||||
Le Mali (tiếng Pháp)[1] | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Chế độ Tổng thống Dân chủ nghị viện dưới chính quyền Quân sự | ||||
Tổng thống lâm thời | Assimi Goïta(lâm thời) | ||||
Thủ tướng | Choguel Kokalla Maïga (Quyền thủ tướng) | ||||
Chủ tịch Quốc hội | Trống (Đã bị giải tán) | ||||
Lập pháp | Quốc hội (Đã bị giải tán) | ||||
Thủ đô | Bamako 12°39′B 8°0′T / 12,65°B 8°T 12°39′B 8°0′T / 12,65°B 8°T | ||||
Thành phố lớn nhất | Bamako | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 1.240.192 km² (hạng 23) | ||||
Diện tích nước | 1,6 % | ||||
Múi giờ | UTC+0; mùa hè: UTC+1 | ||||
Lịch sử | |||||
Độc lập | |||||
Ngày thành lập | 22 tháng 9 năm 1960 | ||||
Ngôn ngữ chính thức | Tiếng Pháp | ||||
Ngôn ngữ quốc gia | |||||
Tôn giáo | Hồi giáo | ||||
Dân số (2022) | 22,395,489[2] người (hạng 58) | ||||
Mật độ | 19 người/km² (hạng 172) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2022) | Tổng số: 56,88 tỷ USD[3] Bình quân đầu người: 2,510 USD[4] | ||||
GDP (danh nghĩa) (2022) | Tổng số: 19,17 tỷ USD[5] Bình quân đầu người: 912 USD[6] | ||||
HDI (2021) | 0,428[7] thấp (hạng 186) | ||||
Hệ số Gini (2010) | 33,0 [8] | ||||
Đơn vị tiền tệ | Franc CFA (XOF ) | ||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .ml |
Mali có tên chính thức là Cộng hòa Mali, (tiếng Pháp: République du Mali; tiếng Bambara: ߡߊߟߌ ߞߊ ߝߊߛߏߖߊߡߊߣ, Latinh hóa: Mali ka Fasojamana, tiếng Fula: 𞤈𞤫𞤲𞥆𞤣𞤢𞥄𞤲𞤣𞤭 𞤃𞤢𞥄𞤤𞤭, chuyển tự Renndaandi Maali, tiếng Ả Rập: جمهورية مالي) là một quốc gia nằm trong lục địa của miền tây châu Phi. Mali là đất nước có diện tích lớn thứ tám châu Phi, và có chung đường biên giới Algérie về phía bắc, Niger về phía đông, Burkina Faso và Côte d'Ivoire về phía nam, Guinée về phía tây nam, Sénégal và Mauritanie về phía tây. Diện tích của Mali vào khoảng 1.240.000 km² và dân số khoảng hơn 14 triệu người. Thủ đô của Mali là Bamako.
Mali được chia làm tám vùng và phần lớn diện tích nước này nằm trong khu vực sa mạc Sahara, trong khi vùng đất phía nam của Mali, nơi có đa số dân cư sinh sống, nằm trong lưu vực của hai con sông Niger và Sénégal. Cơ cấu kinh tế của Mali tập trung chủ yếu vào nông nghiệp và đánh bắt cá. Một số tài nguyên thiên nhiên của Mali bao gồm vàng, uranium, và muối. Mali được xem là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới.
Đất nước Mali hiện tại từng là một phần của ba đế quốc Tây Phi tồn tại trong lịch sử và kiểm soát đường thương mại xuyên Sahara Đế quốc Ghana, Đế quốc Mali (Mali được đặt tên theo đế quốc này), và đế quốc Songhai. Cuối thập niên 1800, Mali nằm dưới sự cai trị của người Pháp, và trở thành một phần của Soudan thuộc Pháp. Mali giành được độc lập vào năm 1959 cùng với Sénégal, và thành lập Liên bang Mali. Một năm sau Liên bang Mali tan rã và Mali trở thành một quốc gia độc lập. Sau một thời gian dài nằm dưới chế độ độc đảng cai trị, cuộc đảo chính 1991 dẫn tới sự thành lập một bản hiến pháp mới quy định thành lập nước Mali dân chủ và có một nhà nước đa đảng. Khoảng phân nửa dân số Mali sống dưới ngưỡng nghèo của quốc tế là 1,25$/ngày.[9]
|url=
(trợ giúp). Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2011. Thiếu dấu sổ thẳng trong: |url=
(trợ giúp); |title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp)