Paul McCartney | |
---|---|
McCartney vào tháng 11 năm 2021 | |
Sinh | James Paul McCartney 18 tháng 6, 1942 Liverpool, Anh |
Tên khác |
|
Nghề nghiệp |
|
Năm hoạt động | 1957–nay |
Phối ngẫu |
|
Bạn đời | Jane Asher (1963–1968) |
Con cái | 5, bao gồm Heather, Mary, Stella và James |
Cha mẹ | Jim và Mary McCartney |
Người thân | Mike McGear (em trai) |
Website | paulmccartney |
Sự nghiệp âm nhạc | |
Thể loại | |
Nhạc cụ | |
Hãng đĩa | |
Hợp tác với | |
Ngài James Paul McCartney CH MBE (sinh ngày 18 tháng 6 năm 1942) là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, nhà sản xuất phim và thu âm người Anh, đồng giọng ca chính, đồng sáng tác và là tay guitar bass của ban nhạc The Beatles. Ông cùng với John Lennon là bộ đôi sáng tác vĩ đại nhất lịch sử.[4] Sau khi ban nhạc tan rã vào năm 1970, ông theo đuổi sự nghiệp solo và thành lập ban nhạc Wings cùng với người vợ đầu của mình, Linda, và Denny Laine.
Là một nhạc sĩ tự học, McCartney chơi thành thạo các nhạc cụ như bass, guitar, organ và trống. Ông nổi tiếng với phong cách chơi bass du dương (chủ yếu chơi bằng miếng gảy), âm vực giọng nam cao linh hoạt và rộng (kéo dài trên bốn quãng tám), và chủ nghĩa chiết trung (khám phá các phong cách âm nhạc từ pre-rock and roll pop đến cổ điển và electronica). McCartney bắt đầu sự nghiệp với tư cách là thành viên của The Quarrymen năm 1957, nhóm sau đó đổi tên thành The Beatles vào năm 1960. Từ album năm 1967 Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band, ông dần trở thành thủ lĩnh trên thực tế của The Beatles, truyền động lực sáng tạo cho hầu hết các tác phẩm âm nhạc và phim ảnh của họ. Các bài hát của The Beatles "And I Love Her" (1964), "Yesterday" (1965), "Eleanor Rigby" (1966) và "Blackbird" (1968) xếp trong số những bài hát được cover nhiều nhất trong lịch sử.[5][6]
Năm 1970, McCartney ra mắt solo với album McCartney. Trong suốt những năm 1970, ông đã dẫn dắt Wings, một trong những ban nhạc thành công nhất của thập kỷ, với hơn 10 đĩa đơn và album thành công quốc tế. McCartney tiếp tục sự nghiệp solo của mình vào năm 1980. Kể từ năm 1989, ông đã lưu diễn liên tục với tư cách là một nghệ sĩ solo. Năm 1993, ông thành lập bộ đôi The Fireman với Youth of Killing Joke. Ngoài âm nhạc, ông còn tham gia các dự án của nhiều tổ chức từ thiện quốc tế liên quan đến quyền động vật, săn hải cẩu, bom mìn, ăn chay, nghèo đói và giáo dục âm nhạc.
McCartney là một trong nghệ sĩ âm nhạc bán đĩa nhạc chạy nhất thế giới. Ông đã viết và đồng sáng tác 32 bài hát đạt vị trí quán quân trên Billboard Hot 100, tính đến năm 2009, đã có 25,5 triệu bản được RIAA chứng nhận tại Hoa Kỳ. Ông được hai lần vinh danh vào Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll (với tư cách là thành viên của The Beatles năm 1988 và với tư cách là nghệ sĩ solo năm 1999), nhận 18 giải Grammy, được bổ nhiệm làm Thành viên Đế quốc Anh năm 1965, và được phong tước hiệp sĩ vào năm 1997 vì những cống hiến trong âm nhạc. Tính đến năm 2020, ông cũng là một trong những nhạc sĩ giàu có nhất thế giới, với tài sản ước tính 800 triệu bảng Anh.[7]
By any measure, no one comes close to matching the success of The Beatles' primary songwriters.