Septimius Severus

Septimius Severus
Hoàng đế thứ 21 của Đế quốc La Mã
Tượng bán thân bằng thạch hoa tuyết cao của Septimius Severus tại Musei Capitolini, Roma
Nguyên thủ thứ 21 của La Mã
Trị vì14 tháng 4 năm 1934 tháng 2 năm 211
(17 năm, 296 ngày)
Đồng trị vìCaracalla (198 - 211)
Geta (209 - 211)
Tiền nhiệmDidius Julianus
Kế nhiệmCaracallaGeta
Thông tin chung
Sinh(145-04-11)11 tháng 4, 145[1]
Lepcis Magna (Al Khums, Libya)
Mất4 tháng 2, 211(211-02-04) (65 tuổi)[2]
Eboracum (York, Anh Quốc)
Hậu duệCaracallaPublius Septimius Geta
(dưới trướng Julia Domna)
Tên đầy đủ
Lucius Septimius Severus
(từ khi sinh đến lúc đăng quang);
Caesar Lucius Septimius Severus Eusebes Pertinax Augustus[3]
(tên hoàng đế)
Hoàng tộcSeverus
Thân phụPublius Septimius Geta
Thân mẫuFulvia Pia

Lucius Septimius Severus (tiếng Latinh: Lucius Septimius Severus Augustus;[4] 11 tháng 4 năm 145 – 4 tháng 2 năm 211) là Hoàng đế của Đế quốc La Mã (193–211). Severus sinh ra ở châu Phi và đã vươn tới quyền lực khi đế quốc La Mã suy yếu (kể từ cái chết của Hoàng đế Marcus Aurelius). Severus cai trị cùng với hai con trai ông là CaracallaGeta. Ông là một thành viên của Vương triều Severus. Ông là một vị hoàng đế vĩ đại đã cố lập lại quyền lực của đế quốc. Sau khi ông băng hà năm 211 ở York, La Mã suy yếu thật sự.

Severus được sinh ra ở Leptis Magna thuộc hành tỉnh châu Phi. Khi còn trẻ ông liên tục thăng tiến nắm giữ nhiều chức vụ dưới triều đại của Marcus AureliusCommodus. Severus nắm quyền sau cái chết của Hoàng đế Pertinax vào năm 193 trong giai đoạn gọi là Năm Ngũ Hoàng đế. Sau khi lật đổ và giết chết vị hoàng đế đương nhiệm Didius Julianus, Severus đã giao chiến với các đối thủ của mình, hai vị tướng Pescennius NigerClodius Albinus. Niger đã bị đánh bại vào năm 194 trong trận Issus ở Cilicia[5] Cuối năm đó,Severus tiến hành một chiến dịch ngắn vượt ra ngoài biên giới phía đông, thôn tính Vương quốc Osroene thành một tỉnh mới.[6] Severus đánh bại Albinus ba năm sau đó tại Trận Lugdunum ở Gaul[7].

Sau khi củng cố sự cai trị của ông ở tỉnh phía tây, Severus tiến hành một cuộc chiến ngắn ngày khác, nhưng thành công hơn ở phía đông chống lại Đế chế Parthia, cướp phá Ctesiphon thủ đô của họ trong năm 197 và mở rộng biên giới phía đông tới sông Tigris [8]. Hơn nữa, ông còn mở rộng và tăng cường phòng tuyến Arabicus ở Arabia Petraea [9] Năm 202, ông tiến hành chiến dịch ở châu Phi và Mauretania chống lại dân Garamantes;. Ông chiếm kinh đô Garama của họ và mở rộng phòng tuyến Tripolitanus dọc theo biên giới phía nam của đế quốc [10] Cuối triều đại của mình, ông du hành đến nước Anh, tăng cường trường thành Hadrian và tái chiếm lại trường thành Antonine. Năm 208 ông bắt đầu cuộc chinh phục Caledonia (nay là Scotland), nhưng tham vọng của ông bị chặn lại khi ông ngã bệnh vào cuối năm 210 [11]. Severus đã qua đời vào đầu năm 211 tại Eboracum,[2] được kế vị bởi hai con trai Caracalla và Geta.

  1. ^ Birley (2000), p. 1
  2. ^ a b Birley (2000), p. 187
  3. ^ Paget, James Carleton, Jews, Christians and Jewish Christians in Antiquity, Mohr Siebeck, 2010, pg. 398; Goodman, Martin, Rome & Jerusalem: The Clash of Ancient Civilisations, Penguin, 2008, pg. 505
  4. ^ Trong tiếng Latinh cổ điển, tên của Severus được viết là LVCIVS SEPTIMIVS SEVERVS AVGVSTVS.
  5. ^ Birley (2000), p. 113
  6. ^ Birley (2000), p. 115
  7. ^ Birley (2000), p. 125
  8. ^ Birley (2000), p. 130
  9. ^ Birley (2000), p. 134
  10. ^ Birley (2000), p. 153
  11. ^ Birley (2000), p. 170 - 187

From Wikipedia, the free encyclopedia · View on Wikipedia

Developed by Tubidy