Cộng hoà Ả Rập Syria
|
|||||
---|---|---|---|---|---|
Tên bằng ngôn ngữ chính thức
| |||||
| |||||
Bản đồ Vị trí của Syria (xanh) trên thế giới Vị trí Syria (đỏ) trong khu vực
| |||||
Tiêu ngữ | |||||
وَحْدَةٌ ، حُرِّيَّةٌ ، اِشْتِرَاكِيَّةٌ (Ả Rập) Waḥdah, Ḥurrīyah, Ishtirākīyah Thống nhất, Tự do, Chủ nghĩa xã hội | |||||
Quốc ca | |||||
"حماة الديار"(tiếng Ả Rập) Humat ad-Diyar Những người bảo vệ quê hương | |||||
Hành chính | |||||
Chính phủ | Cộng hòa tổng thống dưới chế độ độc tài toàn trị | ||||
Tổng thống | Bashar al-Assad | ||||
Thủ tướng | Imad Khamis | ||||
Lập pháp | Hội đồng nhân dân | ||||
Thủ đô | Damascus 33°30′B 36°18′Đ / 33,5°B 36,3°Đ | ||||
Thành phố lớn nhất | Damascus | ||||
Địa lý | |||||
Diện tích | 185.180[1] km² (hạng 87) | ||||
Diện tích nước | 1,1 % | ||||
Múi giờ | EET (UTC+2); mùa hè: EEST (UTC+3) | ||||
Lịch sử | |||||
Hình thành | |||||
8 tháng 3 năm 1920 | Vương quốc Ả Rập Syria | ||||
1 tháng 12 năm 1924 | Nhà nước Syria do Pháp uỷ trị | ||||
1930 | Cộng hoà Syria | ||||
24 tháng 10 năm 1945 | Độc lập | ||||
8 tháng 3 năm 1963 | Đảng Ba'ath nắm quyền | ||||
27 tháng 2 năm 2012 | Hiến pháp hiện hành | ||||
Ngôn ngữ chính thức | tiếng Ả Rập | ||||
Dân số ước lượng (2011) | 18.000.000 người (2015) người (hạng 54) | ||||
Mật độ | 118,3 người/km² (hạng 101) | ||||
Kinh tế | |||||
GDP (PPP) (2010) | Tổng số: 107,831 tỷ USD[2] Bình quân đầu người: 5.040 USD[2] | ||||
GDP (danh nghĩa) (2010) | Tổng số: 59,957 tỷ USD[2] Bình quân đầu người: 2.802 USD[2] | ||||
HDI (2014) | 0,594[3] trung bình (hạng 134) | ||||
Đơn vị tiền tệ | Bảng Syria (SYP ) | ||||
Thông tin khác | |||||
Tên miền Internet | .sy | ||||
Syria (phiên âm tiếng Việt: "Xy-ri-a" hoặc "Xy-ri", tiếng Ả Rập: سورية sūriyya hoặc سوريا sūryā;), tên chính thức là Cộng hòa Ả Rập Syria (tiếng Ả Rập: الجمهورية العربية السورية), là một quốc gia ở Tây Á, giáp biên giới với Liban và Biển Địa Trung Hải ở phía tây, Thổ Nhĩ Kỳ ở phía Bắc, lraq ở phía Đông, Jordan ở phía Nam, và Israel ở phía Tây Nam.
Cái tên Syria trước kia gồm toàn bộ vùng Levant, trong khi nhà nước hiện đại bao gồm địa điểm của nhiều vương quốc và đế chế cổ, gồm cả nền văn minh Ebla từ thiên niên kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Trong thời kỳ Hồi giáo, thành phố thủ đô, Damascus, là nơi đóng đô của Đế chế Umayyad và là một thủ phủ tỉnh của Đế chế Mamluk. Damascus được nhiều người coi là một trong những thành phố có người cư trú liên tục cổ nhất thế giới.[4]
Nước Syria hiện đại được thành lập như một vùng ủy trị của Pháp và giành được độc lập tháng 4 năm 1946, như một nhà nước cộng hòa nghị viện. Giai đoạn hậu độc lập khá bất ổn, và nhiều cuộc đảo chính quân sự và các âm mưu đảo chính đã làm rung chuyển đất nước trong giai đoạn 1949–1970. Syria đã ở dưới một Luật Khẩn cấp từ năm 1962, hoàn toàn ngừng mọi việc bảo vệ hiến pháp cho các công dân và hệ thống chính phủ của nó bị coi là phi dân chủ.[5]
Nước này đã nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng Baath từ năm 1963, mặc dù quyền lực thực tế tập trung ở trong tay tổng thống và một nhóm nhỏ những quan chức quân sự và chính trị. Tổng thống hiện thời của Syria là Bashar al-Assad, người đã giành thắng lợi trong một cuộc trưng cầu dân ý kéo dài thời gian làm tổng thống của ông thêm một nhiệm kỳ nữa, với 97.62% phiếu bầu năm 2007 và là con trai của Hafez al-Assad, người giữ chức vụ này từ năm 1970 cho tới khi ông chết năm 2000.[6][7] Syria đã đóng một vai trò quan trọng trong khu vực, đặc biệt nhờ vị trí trung tâm của nó trong cuộc xung đột Ả Rập Israel, từ năm 1967 Israel đã chiếm Cao nguyên Golan của nước này, và bởi sự tham gia tích cực vào các công việc tại Liban và Palestine.
Dân số chủ yếu là tín đồ Hồi giáo Sunni, nhưng có số lượng các cộng đồng thiểu số Alawite, Shia, Thiên chúa giáo và Druze đáng kể. Từ thập niên 1960, các sĩ quan quân sự Alawite đã có ý định thống trị chính trị đất nước. Theo sắc tộc, khoảng 80% dân số là người Ả Rập, và nhà nước do Đảng Baath lãnh đạo theo các nguyên tắc quốc gia Ả Rập, trong khi xấp xỉ 20% thuộc các sắc tộc thiểu số Kurd, Armenia, Assyria, Turkmen, và Circassia.[7]