Xbox với tay cầm Controller S | |
Nhà chế tạo | Microsoft |
---|---|
Dòng sản phẩm | Xbox |
Loại | Video game console |
Thế hệ | Thế hệ thứ sáu |
Vòng đời | |
Ngừng sản xuất | |
Số lượng bán | Hơn 24 triệu chiếc (10 tháng 5 năm 2006)[1] |
Truyền thông | DVD, CD |
Hệ điều hành | Custom (Dựa trên thiết kế của Windows NT và Windows XP (qua Xbox LIVE) |
CPU | Custom 733 MHz Intel Pentium III "Coppermine-based" |
Bộ nhớ | 64 MB DDR SDRAM @ 200 MHz |
Lưu trữ | Ổ đĩa cứng 8 hoặc 10 GB (được định dạng thành 8 GB với dự trữ hệ thống được phân bổ và MS Dash), thẻ nhớ 8 MB |
Đồ họa | 233 MHz nVidia NV2A |
Điều khiển | Bốn cổng kết nối tay cầm Xbox (giao diện USB độc quyền) |
Kết nối | 100 Mbit Ethernet |
Dịch vụ trực tuyến | Xbox Live |
Trò chơi bán chạy nhất | Halo 2, với 8 triệu bản (9 tháng 5 năm 2006)[2][3] |
Sản phẩm sau | Xbox 360 |
Xbox là một máy chơi trò chơi video gia đình và là phần đầu tiên trong loạt máy chơi trò chơi video Xbox do Microsoft sản xuất. Nó được phát hành dưới dạng bước đột phá đầu tiên của Microsoft vào thị trường máy chơi game vào ngày 15 tháng 11 năm 2001 tại Bắc Mỹ, tiếp theo là Úc, Châu Âu và Nhật Bản vào năm 2002. Nó được phân loại là một thế hệ video game console thứ sáu, cạnh tranh với PlayStation 2 của Sony và GameCube của Nintendo. Nó cũng là máy chơi game chính đầu tiên được một công ty Mỹ sản xuất kể từ khi Atari Jaguar ngừng sản xuất vào năm 1996.
Được công bố vào năm 2000, Xbox có sức mạnh đồ họa nổi trội so với các đối thủ của nó, có Bộ xử lý Intel Pentium III 733 MHz, bộ xử lý có thể tìm thấy trên PC tiêu chuẩn. Nó cũng được ghi nhận về kích thước và trọng lượng giống như PC, và là console đầu tiên có ổ cứng tích hợp.[4][5] Vào tháng 11 năm 2002, Microsoft đã ra mắt Xbox Live, một dịch vụ chơi trò chơi trực tuyến có tính phí, cho phép các thuê bao tải xuống nội dung mới và kết nối với những người chơi khác thông qua kết nối băng thông rộng.[6] Không giống như các dịch vụ trực tuyến từ Sega và Sony, Xbox Live có hỗ trợ trong thiết kế bảng điều khiển gốc thông qua cổng Ethernet tích hợp. Dịch vụ này đã giúp Microsoft có chỗ đứng sớm trong mảng trò chơi trực tuyến và giúp Xbox trở thành đối thủ cạnh tranh trong thế hệ máy chơi game thứ sáu. Sự phổ biến của các tựa game bom tấn như Halo 2 của Bungie đã góp phần vào sự phổ biến của mảng trò chơi trực tuyến và đặc biệt là các game bắn súng góc nhìn thứ nhất.[7]
Xbox đã có một sự ra mắt kỷ lục ở Bắc Mỹ, với việc bán được 1,5 triệu chiếc trước cuối năm 2001, được hỗ trợ với sự phổ biến của một trong những tựa game ra mắt của hệ thống, Halo: Combat Evolve, đã bán được một triệu chiếc vào tháng 4/2002. Cuối cùng Xbox đã bán được tổng cộng 24 triệu chiếc trên toàn thế giới, bao gồm 16 triệu chiếc ở Bắc Mỹ; tuy nhiên, Microsoft đã không thể kiếm được lợi nhuận ổn định từ console này, vốn có giá sản xuất đắt hơn nhiều so với giá bán lẻ. Mặc dù mức độ phổ biến của Xbox là rất lớn, Microsoft đã mất hơn 4 tỷ đô la trong suốt thời gian sản phẩm này được đưa ra thị trường. Hệ thống này đã bán chạy hơn GameCube và Sega Dreamcast, nhưng đã bị PlayStation 2 qua mặt với khoảng cách rất xa, với doanh số bán hơn 100 triệu chiếc cho đến khi ngừng bán vào năm 2005. Xbox cũng ít phổ biến bên ngoài thị trường phương Tây; đặc biệt, nó có doanh thu thấp ở Nhật Bản do kích thước console lớn và quá nhiều trò chơi được bán cho khán giả Mỹ mà ít các tựa game do Nhật Bản phát triển.[8] Việc sản xuất Xbox đã bị ngừng vào năm 2005,[9] với việc Microsoft hoàn toàn ngừng hỗ trợ hết bảo hành vào năm 2009 và chấm dứt hỗ trợ Xbox Live cho hệ thống vào năm 2010. Xbox là sản phẩm đầu tiên trong một thương hiệu máy chơi game video được Microsoft phát triển, với sản phẩm tiếp theo là Xbox 360, ra mắt năm 2005, sau đó là Xbox One vào năm 2013.
Combined, the first two Halo games have notched up sales of more than 14.5 million copies so far, about 8 million of which can be attributed to Halo 2, which is the best-selling first-generation Xbox game worldwide.